Dấu tích của cư dân vùng biển.

K’pan là cái băng dài được đẽo từ một thân gỗ dùng để ngồi đánh chiêng. Người Eđê và người Jrai đều có K’pan. Người Êđê gọi là “K’pan”, còn người Jrai thì gọi là “Pan ia”. K’pan là từ được viết gọn từ “Kom pan” có nghĩa là “con tàu”. Nghe tên gọi và hình dáng của K’pan, ta có thể biết được đây là hình ảnh của con tàu đi biển. Như vậy, nhiều khả năng dân tộc Jrai và Êđê là những cư dân vùng biển di chuyển lên Tây Nguyên.


Âm vang tiếng chày trên buôn

Người Jrai ngày trước gắn bó với cái chày, cái cối như gắn bó với người thân của mình. Cái chày tiếng Jrai gọi là hlâo, cái cối gọi là rơsung. Ngày mà con người cộng sinh với sử thi thì làm gì có máy xay, máy xát. Người Jrai lại sống theo chế độ tự cấp, tự túc, việc gì cũng tự làm lấy chẳng thuê mướn ai bao giờ. Vì vậy, hạt thóc, hạt bắp trên nương thu hoạch về đều đi qua miệng cối để trở thành thức ăn nuôi sống con người.

Cái cối Jrai là cối gỗ  làm từ cây tơnung, còn gọi là cây lộc vừng cạn. Lá cây  tơnung giống lá bàng, búp lá ăn có vị chát. Khi một người đốn được cây lộc vừng thì cả làng đến xin mỗi người một khúc đủ để làm cối, không có một khúc gỗ nào bị bỏ phí. Gỗ cây tơnung khi còn tươi thì rất dẻo nhưng khi khô đã rắn như đá. Khi chế tác cối, người ta cắt lấy một khúc gỗ vừa cao bằng tầm cối rồi dùng rìu đẽo vào ruột gỗ. Cối không thể đẽo một lần mà được. Sau mỗi lần đẽo, người ta lại bỏ vào miệng cối một ít than củi, đang đượm lửa hoặc chưa đốt rồi dùng ống lồ ô dài chừng một khuỷu tay thổi vào than thúc cho than đỏ rực trong lòng cối. Người chế tác cối cứ đục rồi lại đốt nhiều lần như thế đến khi có độ sâu ưng ý thì thôi.
Độ sâu của chiếc cối chỉ hơn một gang tay, nhưng qua năm tháng thì sâu dần và có trường hợp sâu đến thủng lòng cối. Với chiếc cối bị thủng, nhiều nhà không chịu vứt bỏ mà tìm cách đắp lại. Họ lại kiếm súc gỗ nhỏ chêm vào chỗ thủng rồi lại dùng rìu, dùng lửa tạo ra lòng cối mới. Thế mới biết người Jrai khéo tay và tiết kiệm như thế nào. Theo phong tục Jrai, cối là vật thiêng phải được giữ gìn cẩn thận, giã xong úp ngay miệng cối xuống sàn nhà. Người Jrai tối kỵ ngồi lên miệng cối. Còn chày sau khi giã xong, không bao giờ được để dựng đứng mà phải xếp ngay lên giá đặt trước và song song với hiên nhà.

Chày giã làm bằng gỗ cây kơnia hoặc cây hương, ưu điểm của các cây này là trọng lượng riêng rất nặng, kể cả khi đã khô kiệt. Chày dựng đứng cao hơn đầu người, thuôn tròn như bắp chân.

Một nhà người Jrai thường có hai loại cối. Loại cối lòng sâu hẹp dùng để giã thóc. Loại cối lòng nông và rộng dùng để giã bắp. Chày dùng chung cho cả hai loại cối. Chẳng nhà nào có hai bộ chày bao giờ. Người Jrai chỉ chú ý đến độ tầy, nhọn của chày mà thôi. Khi giã thóc, ở công đoạn trật vỏ trấu, thì dùng đầu nhọn, ở công đoạn giã cho sạch cám thì dùng đầu to. Còn giã bắp thì chỉ dùng đầu nhỏ. Với hạt bắp quá cứng thì được ngâm qua nước cho mềm trước khi đổ vào cối.

Khi giã, hai hay ba người hai tay nắm chặt eo chày, đứng quay mặt vào nhau mà nện chày xuống lòng cối. Có thể nói thêm rằng, chày của người Jrai lúc mới chế tác không làm thắt eo như chày của người Kinh, nhưng qua năm tháng do tay người nắm vào dần dần cũng mòn tạo thành eo. Tiếng chày Jrai thật kỳ diệu cứ nhịp đôi nhịp ba, vào ngày lễ hội còn là nhịp bốn, tụp tùm tum từ đời này qua đời khác mà không bao giờ loạn nhịp, không bao giờ nghe thấy tiếng chày va vào nhau. Người Jrai có thói quen giã gạo vào sáng sớm và những đêm trăng. Những ngày bận lên nương gieo hạt, trỉa bắp, thì ban đêm mới là thời gian giã. Vì thế, tiếng chày thường vọng về đêm. Trong đêm cao nguyên, tiếng chày không lẫn với tạp âm nên vang vọng, điềm tĩnh đến lạ thường. Có chăng chỉ có tiếng suối họa cùng. Vắng tiếng chày là làng đói. Tiếng chày là âm thanh no ấm. Tiếng chày là niềm kiêu hãnh âm thầm của nhà này với nhà khác, làng này với làng khác.

Một điều rất thú vị là theo phong tục Jrai, với việc chế tác chày cối bao giờ cũng là đàn ông còn sử dụng nó bao giờ cũng là người thuộc phái nữ. Đây là sự phân công lao động từ bao đời, ai nấy nhất nhất tuân theo. Không biết từ lúc nào, hình ảnh thiếu nữ Jrai nhịp nhàng vung chày giã gạo bên cối gỗ đã trở thành biểu tượng về con người và cuộc sống lao động cần cù, thơ mộng nơi đây. Cối chày Jrai hóa thành văn hóa làng. Tiếng chày có bao điều kỳ diệu. Nhiều khi nó đóng vai trò ông mai giúp cho bao đôi trai gái nên vợ nên chồng. Lũ con trai chưa vợ nghe tiếng chày rất tinh. Họ nghe tiếng chày mà biết người giã còn là thiếu nữ hay đã con đống, con đàn. Tiếng chày của thiếu nữ âm thanh thường gọn, nhịp nhanh đều và rắn rỏi và hình như còn có sức quyến rũ khác nữa.

Cũng rất có thể các cô gái Jrai muốn qua tiếng chày gửi đi một thông điệp về tài năng và đức siêng năng của mình đến với các chàng trai. Còn các chàng trai cứ theo lời mách bảo của cái tai mà tìm đến các nàng bên cối giã. Họ xin vào giã cùng cô gái mà mình ưng ý nhất. Họ có giã mấy đâu mà cốt để đầu mày cuối mắt. Có chàng còn cố tình để gạo trong cối bắn ra ngoài để được nghe lời trách và ngồi nhặt. Và đây chính là cái cớ để chàng trai ở lâu hơn nữa bên cối giã với người đẹp.

Bây giờ đời sống công nghiệp đã đến với từng nếp nhà Jrai. Người Jrai đã làm quen với máy xay, máy xát. Tiếng chày vì thế cứ thưa dần. Cuộc sống trôi đi như nước sông Ba, sông Ayun. Chẳng có con sóng nào quay trở lại… Nhưng rồi một ngày nào đó, có gì khơi vào nỗi nhớ, thì tiếng chày thân thuộc lại vọng về, đem đến cho những người Jrai lớn tuổi một nỗi bùi ngùi...
Đào Nam Sơn - Kpă Pual

Tết của người Jrai

Ở Việt Nam, theo điều tra dân số năm 2009, dân tộc Jrai có 411.275 người, cư trú tập trung ở  3 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum và Đak Lak. Dân tộc Jrai là một dân tộc có bề dày văn hóa truyền thống.

Người Jrai  theo nông lịch. Hàng năm, qua mùa khô hanh, khi có hạt mưa đầu tiên rơi xuống, người Jrai coi đó là tháng Giêng. Cơn mưa đầu tiên với người Jrai rất có ý nghĩa. Đồng bào gọi cơn mưa này là lệ rah. Hàng năm, cơn mưa đầu tiên trên rẻo đất Tây Nguyên thường trúng vào tháng tư Dương lịch. Trong 12 tháng theo lịch của đồng bào thì 10 tháng đầu tiên được gọi tên bằng số từ 1 đến 10, còn hai tháng cuối thì có tên riêng lần lượt là tháng Ning Nung  và tháng Wor. Ning Nung là hình tượng con cá dưới nước, con thú trên rừng.
Ảnh: Đức Thụy
Ảnh: Đức Thụy
Tháng Ning Nung có thể xem là tháng săn bắt. Wor nghĩa đen của từ này là “quên”. Sau một năm vất vả con người ta cũng cần quên: Quên rìu rựa, quên lo toan đời thường, để ăn chơi, để chăm lo những việc tinh thần. Như vậy tháng tư Dương lịch thường trúng với cái Tết của người Jrai. “Tháng Ba mùa con ong đi lấy mật” chính là tháng  cuối cùng trong năm, cũng là tháng người Jrai chuẩn bị đón Tết Nguyên đán. Đất trời Tây Nguyên tháng 4, lúc có cơn mưa đầu mùa, trên rừng thì  lá cây đã được gột rửa, dưới đất thì bụi đỏ bazan đã chịu nằm yên, thời tiết khô ráo, mát mẻ. Lúc này mà  tổ chức  các cuộc vui Tết cũng có thể nói là đã hội đủ 3 yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Người Jrai không thống nhất ngày Tết Nguyên đán, mà chỉ thống nhất tháng Tết Nguyên đán là tháng 4. Trong phạm vi tháng 4, ngày Tết tùy theo gia đình, tùy theo làng lựa chọn mà thành. Vì không có ngày đón Tết thống nhất chung cho cả cộng đồng nên người Jrai không quan tâm đến đêm Giao thừa.

Bước vào năm mới, người Jrai không đón Tết Nguyên đán riêng. Đây là nét văn hóa độc đáo. Như trên đã nói, cả tháng Wor (tháng quên) là tháng Tết.  Đón mừng năm mới, các gia đình Jrai thường tổ chức kèm theo một lễ nào đó như: Lih (lễ tạ ơn), lễ Pơ-thi (lễ bỏ mả), Đị tố sang (lễ mừng nhà mới). Gia đình nào không có lễ kèm theo Tết Nguyên đán thì việc tổ chức đón Tết có phần tùng tiệm hơn.
Theo phong tục Jrai, con vật nào định mổ để cầu cúng trong ngày Tết thì cần có sự chăm sóc đặc biệt. Thường thì khi nuôi nó, chủ nhà có làm một lễ nhỏ cầu xin các thần phù hộ cho nó hay ăn chóng lớn. Khi nuôi, nếu không may con vật này chết đi, muốn nuôi  con vật khác để dùng trong ngày Tết thì lại phải cúng nữa. Ngày Tết, người Jrai dùng nhiều rượu. Rượu uống ngày Tết là rượu cần ủ sẵn trong ghè. Có nơi ủ cả năm, nếu là men tự làm bằng nguyên liệu lấy trong rừng thì để càng lâu càng tốt. Tinh bột dùng để nấu rượu là thóc chỉ trật vỏ trấu, còn bắp thì chỉ giã dập chứ không xay nhỏ. Nhờ khéo tay, cơm ráo, men rượu lại tốt nên rượu cần của người Jrai thường rất ngọt. Rượu cần của đồng bào thường không có nồng độ cao, lại dễ uống nên uống được nhiều, nhưng xem chừng đấy, đã say rượu ghè Jrai thì ngất ngây.

Ngày Tết, người Jrai không làm bánh. Đồng bào chỉ dùng cơm và chế biến  thức ăn nhiều hơn ngày thường. Thay vì làm bánh, người Jrai làm rất nhiều cơm lam. Cơm lam được nấu trong ống lồ ô to bằng cán dao.

Thức ăn ngày Tết của người Jrai thường là món thịt nướng, món phèo, món  canh bí nấu với xương trong nồi to. Người Jrai ưa thích món thịt heo luộc thái miếng trộn với thính làm từ bột bắp rang. Món ăn này người Jrai gọi là oái (uaih). Đồng bào thường chọn những con heo béo để chế biến món ăn này. Đồng bào còn ưa thích món ăn có tên là nhăm tơ-pung, gần giống như món cháo. Gạo giã nhỏ như bột trộn với thịt và rau, có nơi không có rau thì lấy xơ mít xé nhỏ rồi nấu nhuyễn. Có thể nói, nón ăn này là món phổ biến nhất của nhiều làng Jrai. Mâm cỗ nào không có món  nhăm tơ-pung này là cảm thấy thiếu thiếu.

Trong tháng Tết, khi một nhà tổ chức ăn uống, chỉ cần được thông báo, không cần biết gia chủ có mời hay không, người nhà khác cứ đến ăn. Khi đến, họ thì mang thức ăn hoặc gạo đến để góp. Ai góp gì, góp bao nhiêu cũng được. Chủ khách chẳng ai so đo tính toán. Tập tính cộng đồng và sự hồn nhiên trong đời sống của người Jrai  là thế. Ăn uống xong, ai ra về cũng  được gia chủ biếu một miếng thịt, dù là rất nhỏ, gọi là có quà cầm tay.

Trong những ngày Tết, trước khi ăn uống, người Jrai thường mời thầy cúng, nhờ thầy cúng gọi các thần núi, thần sông, thần suối gần đó và gọi tổ tiên về ăn chung. Khi cúng, thầy cúng đặt một ngón tay vào ghè rượu rồi kể lể vân vi. Lúc kết thúc lời cúng, thầy lấy nước trong bát đồng đổ vào ghè rượu. Ai là nhân vật chính trong lễ thì được ưu tiên cầm cần uống trước.

Sau khi đón Tết Nguyên đán, người Jrai bước vào vụ mới. Trước khi lên rẫy, tha pơ-lơi hay tha bôn (già làng) là người tổ chức lễ cúng để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, con chuột, con chim không đến quấy phá.

Người Jrai cũng như một số dân tộc thiểu số anh em khác có ngày Tết Nguyên đán truyền thống không trùng với Tết của người Việt. Tuy nhiên ngày Tết Nguyên đán của người Việt được đồng bào các dân tộc coi là cái Tết chung của đại gia đình Việt Nam. Và như thế, đồng bào dân tộc thiểu số có hai cái Tết Nguyên đán, hai niềm vui đón Xuân, niềm hạnh phúc của đồng bào như được nhân đôi.
Đào Nam Sơn- Kpă Pual

Gia Lai: Hội thảo thống nhất bộ chữ cái tiếng Jrai và Bahnar

Trong hai ngày (26 và 27-7-2011), Sở Giáo dục-Đào tạo Gia Lai tổ chức Hội thảo “Đề xuất sửa đổi, bổ sung Quyết định số 03/QĐ-UB ngày 28-10-1981 của UBND tỉnh Gia Lai-Kon Tum về việc công bố bộ chữ cái biên soạn chữ các dân tộc”. 
Quyết định trước đây ban hành quy định bộ chữ cái biên soạn các tài liệu, văn bản tiếng Jrai, Bahnar. Sự ra đời của quyết định đã khắc phục những khó khăn tạm thời về mặt kỹ thuật chế bản đối với các văn bản tiếng Jrai, Bahnar. 
Tuy nhiên, đến nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, những khó khăn trên đã được khắc phục hoàn toàn nên việc sử dụng bộ chữ sẽ được quay lại như trước năm 1981 mà cộng đồng người Jrai, Bahnar đã và đang sử dụng rộng rãi. 
Kết thúc Hội thảo, các đại biểu đã thống nhất đề xuất UBND tỉnh ban hành riêng biệt hai quyết định cho hai thứ tiếng Jrai và Bahnar, trong đó thể hiện rõ: Chữ “ch” sẽ được thay bằng “č”, chữ “nh” sẽ được thay bằng “ñ”. Còn hệ thống âm vần thì tùy đặc trưng của mỗi thứ tiếng sẽ quy định cụ thể.
Kpă Pual

Trao đổi thêm về tên gọi “Pleiku”

Nhân đọc bài “Pleiku dưới góc nhìn lịch sử địa danh” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân, tôi xin đưa ra thêm giả thuyết về nguồn gốc của cái tên “Pleiku” để mọi người cùng bàn luận.
Bài viết có đưa ra hai truyền thuyết về cái tên “Pleiku”. Cả hai truyền thuyết này đều có kết luận “Pleiku” có nghĩa là “làng đuôi”. Đó chỉ là truyền thuyết và truyền thuyết này chắc rằng có sau cái tên “Pleiku”. Bởi nếu nghiên cứu kỹ ta thấy cả hai truyền thuyết này đều chưa thuyết phục về nguồn gốc, vì người Jrai không đặt tên làng theo sự kiện mà chỉ đặt theo tên sông, núi, phương hướng, cây cối... hoặc theo tên người lập làng.
Đường phố Pleiku hôm nay. Ảnh: Nguyễn Giác
Đường phố Pleiku hôm nay. Ảnh: Nguyễn Giác
Trong bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân, có một chi tiết có thể làm căn cứ đưa ra một giả thuyết về cái tên “Pleiku” thuyết phục hơn: “Trong tài liệu thư tịch, tại Nghị định Toàn quyền Đông Dương ngày 4-7-1905, Plei-Kou đã xuất hiện lần đầu tiên trong văn bản, với nội dung: Đem vùng miền núi phía Tây tỉnh Bình Định thành lập một tỉnh tự trị, lấy tên là Plei-Kou-Derr”. 
Phân tích cách viết tên “Plei-Kou-Derr”, tên “Pleiku” ngày nay là được viết từ việc biến đổi cách viết “Plei-Kou”. Còn cái đuôi “Derr”, tra từ điển Pháp-Việt, không có từ “Derr”. Như vậy, “Derr” ở đây chính là một yếu tố của từ tiếng Jrai. Cái tên “Plei-Kou-Derr” có thể đây chính là từ “Plơi Kơdưr” được phiên tự theo cách viết tiếng Pháp.
“Plơi” tiếng Jrai nghĩa là “làng”. Còn “Kơdưr” có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là “hướng Bắc”, nghĩa thứ hai là “trên cao”. Cả hai nghĩa này đều phù hợp với vị trí của Pleiku. Bởi vì ngày xưa vùng đất sinh sống của người Jrai là phía Nam của Pleiku, từ Phú Thiện trở vào. Với nghĩa thứ hai, Pleiku là làng có độ cao hơn so với các làng khác của người Jrai. Như vậy, “Plơi Kơdưr” nghĩa là “làng Bắc” hoặc “làng thượng” (trên cao). Về việc phiên tự “Kơ” thành “Kou” có thể là do lúc đó chưa có ký tự “ơ” như ngày nay nên người ta dùng hai ký tự “ou” để đọc là “ơ”. Còn “Dưr” được viết thành “Derr” có thể là do lúc đó chưa có ký tự “ư” nên viết thành “e”.
Theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương ngày 24-5-1925, địa lý hành chính Pleiku thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập. Từ đây, Pleiku với ý nghĩa một địa danh cả về cách đọc và cách viết đã ra đời và tồn tại đến ngày nay. Từ làng gốc Pleiku, sau này còn tách ra nhiều làng nhỏ: plơi Ku Roh, plơi Ku Ngó, plơi Ku Tong, plơi Ku Blang… 
Về gốc gác cái tên Plei Ku Roh (hiện nay là khối phố 50, phường Yên Đổ), xưa kia làng này ở tại Trung tâm Thương mại Pleiku hiện nay (khu đường Hai Bà Trưng). Đến thời Pháp thuộc, có một đồn lính Pháp bên cạnh làng. Mỗi khi có đám tang hoặc lễ hội thì dân làng lại mang chiêng trống ra đánh thâu đêm suốt sáng. Không chịu được, lính Pháp đã gây sự với dân làng. Để tránh sự quấy rối của Pháp, dân làng đã dời làng đến chỗ ở ngày nay với cái tên là Plei Ku Roh. “Roh” trong tiếng Jrai là “ngoài biên”, đặt tên “Plei Ku Roh” vì làng đã được dời ra ngoài.
Một số hộ chuyển đến ở phía Đông của làng cũ nên đặt tên làng là “Plei Ku Ngó”. “Ngó” trong tiếng Jrai là “phía Đông”. Còn cái tên làng “plơi Ku Tong, plơi Ku Blang, plơi Ku Jut”, thì “Tong” được nói tắt từ “Tong yong” có nghĩa là “trung tâm”, “ở giữa”; “Blang” có nghĩa là “cây gạo”; “Jut” có nghĩa là “cây trúc”.
Kpă Pual 

Nhà Rông



Nhà Rông – Đây là kiến trúc của người Bahnar, nhưng nó lại mang tên Jrai. Người Bahnar sống trong những ngôi nhà sàn nhỏ đủ cho sinh hoạt của một gia đình nên tất cả các thủ tục, nghi lễ của các gia đình phải tổ chức ở nhà sinh hoạt chung của làng. Còn người Jrai, Êđê thì sống trong ngôi nhà dài Tứ đại đồng đường, nhà dài của họ đủ rộng để tổ chức các nghi lễ của gia đình, vì vậy người Jrai không có nhà sinh hoạt chung. Tuy nhiên, một số vùng sinh sống của người Jrai tiếp giáp với các làng của người Bahnar có giao thoa văn hóa với người Bahnar nên vẫn có nhà Rông. Từ “Rông” trong tiếng Jrai có nghĩa là “to nhất”. Trong làng, những nhà ở của các gia đình đều nhỏ, chỉ có nhà sinh hoạt chung là to nhất nên được gọi là “Sang Rông” (một số vùng gọi là “Sang Rung”). Từ đó các nhà nghiên cứu văn hóa viết thành tiếng Việt là “Nhà Rông”.
"Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu" (Jacques Dournes). Hãy đến với Tây Nguyên bằng một tình yêu sâu và lớn. Để mà có thể hiểu. Và càng hiểu, sẽ càng không thể không yêu đến say đắm vùng đất và con người tuyệt diệu này. (Nguyên Ngọc)


Nay Đer- người thầy giáo sáng lập bộ chữ viết đầu tiên của dân tộc Jrai


Thầy giáo Nay Đer
Thầy giáo Nay Đer
Là người Việt Nam, chúng ta không thể nào quên truyền thống tôn sư trọng đạo mà ông cha ta đã truyền dạy từ bao đời nay.
Ngày 20-11 hàng năm, đối với mỗi người dân Gia Lai nói chung, người con của dân tộc Jrai nói riêng, chúng ta không thể không nhắc đến một người trí thức, người thầy giáo đã sáng lập ra bộ chữ viết đầu tiên của dân tộc Jrai: Nay Đer.
Ông được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng Ơi Nu, nay thuộc huyện Krông Pa vào thập niên 90, thế kỷ XIX (theo một số tư liệu ghi là ông sinh năm 1895). Cha mẹ mất sớm, tuổi thơ của ông trải qua không biết bao gian khó, nhưng với đức tính thông minh, chăm chỉ, ông từng bước vượt qua ranh giới của buôn làng để tìm đến với “con chữ”- khái niệm mà lâu nay người Jrai chưa hề có. Với niềm khao khát được học, được biết chữ, ông đã vượt qua mọi gian khó và vươn lên trong cuộc sống bấy giờ.
Đến đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Nay Đer học xong chương trình sơ học yếu lược và trở thành người trí thức đầu tiên của đồng bào dân tộc Jrai. Theo lời bà Kpă H’Nhung- vợ của cụ Nay Đer thì đây cũng là thời gian ông tìm tòi nghiên cứu, sáng lập ra bộ chữ viết đầu tiên của dân tộc Jrai trên cơ sở phiên âm từ mẫu tự la tinh.
Trường Tiểu học Nay Đer, thị xã Ayun Pa trong ngày khai giảng.
Trường Tiểu học Nay Đer, thị xã Ayun Pa trong ngày khai giảng.
Trong suốt quá trình học tập và công tác, ông không ngừng phấn đấu, suốt đời đem hết tâm huyết phục vụ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng nói chung, sự nghiệp giáo dục tỉnh nhà và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Ông đã được nhà nước phong tặng nhiều huân-huy chương và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Năm 1987 ông qua đời, để lại một tài sản vô cùng quý giá đối với  dân tộc, với quê hương. Dẫu năm tháng đã qua đi nhưng bộ chữ  viết Jrai vẫn trường tồn, tên của người thầy giáo Nay Đer vẫn luôn trong tâm thức của chúng ta trong mỗi người con Jrai.
Xuân Toản

Lễ cầu thần mưa của người Jrai M’thur

Trong quan niệm ngàn đời của người Jrai ở huyện Krông Pa, khi con người sinh ra, thì vạn vật cũng được xuất hiện trên thế gian này. Và có một vị thần cho những hạt nước để mang lại sự sống cho vạn vật là “thần mưa”, vị thần mang lại nhiều may mắn và hành phúc cho người dân nơi đây.

Lễ cầu thần mưa trên rẫy cho mùa màng bội thu.

Người Jrai gọi mưa là “Hơ Jan” và rất coi trọng “Hơ Jan” vì giúp họ giải được nhiệt của cái nắng oi bức, rát bỏng, làm cây cối, hoa màu ở nương, rẫy trở nên tươi tốt và cho họ no cái bụng. Mưa của người Jrai được chia ra 3 mùa: Cơn mưa đầu mùa, là khi người dân chuẩn bị hạt giống để chọc trỉa, lấy các dụng cụ như cuốc, rựa, rìu từ nhà sàn đem xuống dưới đất và cày, bừa đó là “Hơ Jan le rah Phi”. Cơn mưa giữa mùa, lớn nhất và cũng quan trong nhất giúp trồng bắp, trỉa lúa trên nương, trên rẫy, được gọi là “Hơ Jan Jôh Hơma” (người Jrai thường hay gọi là “Hơ Jan trun hyu hma”). Cơn mưa cuối mùa chuẩn bị cho việc đưa hạt bắp, hạt lúa lên chòi, và dệt thổ cẩm, đặt bẫy những con thú trong rừng, bắt con cá ở dưới sông, dưới suối, được gọi là “Hơ Jan hlim”.

Theo quan niệm của người Jrai, nếu làm phật lòng các vị thần thánh thì các vị thần thánh sẽ không ban tặng nước mưa xuống, bệnh tật xuất hiện, đói rét đeo bám liên miên. Vì thế mỗi năm người Jrai luôn tất bật chuẩn bị cho lễ cầu thần mưa. Người Jrai luôn thành tâm, thành ý với các vị thần thánh. Ba năm đầu tiên lễ vật dâng lên các vị thần thánh là một con gà, một ghè rượu, ba năm kế tiếp là một con heo, 3 ghè rượu và ba năm nữa là 1 con bò, 5 ghè rượu. Càng về sau, các con vật dâng lên càng lớn hơn. Điều bắt buộc là cái ghè được cúng phải màu đen bởi quan niệm của người Jrai, màu đen là điềm lành. Trước kia mỗi gia đình phải đóng góp cho lễ cầu mưa một chén tấm, một chén gạo, còn bây giờ thì mỗi gia đình quyên góp bằng tiền. Đồ trang phục cho lễ cúng phải dệt thật đẹp bằng thổ cẩm truyền thống gồm: khăn quấn đầu, áo và khố.

Lễ cầu thần mưa vẫn được nhiều buôn làng thực hiện để giữ gìn nét văn hóa truyền thống độc đáo.
Đầu tiên, người Jrai dựng một cái giàn để cúng bến nước trước, tiếp là cúng các vị thần cây lồ ô, tre, nứa. Sau đó người Jrai về làng dựng cổng và làm một cái giàn ngay con đường xuống bến nước, treo lên bộ da của con chó, đặt một thanh đao, cột một đoạn sợi chỉ màu đen. Điều đó là để ngăn chặn sự xâm nhập của các con quỷ ác đến hại người dân trong làng. Lễ cầu thần mưa khác với tất cả các nghi lễ cúng khác vì người cúng không phải Già làng, mà người có ngôi nhà ở đầu nguồn bến nước sẽ chọn người cùng hướng dãy nhà của mình để thay mặt cho dân làng đứng ra cúng. Người cúng phải đứng nghiêm chỉnh và khoanh hai tay vào nhau trước ngực, cầu khấn: “Hỡi các vị thần thánh hãy cho chúng con có những hạt mưa, hãy xua đuổi những con quỷ quái ác đến hại dân làng, hãy cho những ngôi nhà có sự mát mẻ, các cô gái không chồng, góa phụ có sự sống”… Sau vài ngày được thần thánh ban tặng nước mưa xuống thì cuộc sống của họ từ nóng rát trở nên mát mẻ, không khí người dân trong làng vui hẳn lên. Nếu như trời mưa kéo nhiều ngày, họ lại vứt cái dừng, cái nia ra ngoài trời và cũng cất lên lời cầu: “Hỡi các vị thần thánh, chúng con muốn các vị thần thánh hãy cho cơn mưa tạnh, để các cô gái không chồng, bà góa phụ khỏi phải lạnh giá ở ngôi nhà của họ!”

Với người Jrai, không chỉ có việc cầu mưa cho buôn làng mát mẻ mà ngay cả trên nương, trên rẫy cũng phải cầu mưa để cho cây bắp lên cao, cây lúa trĩu bông. Nếu không, cây bắp, cây lúa sẽ chết khô vì cháy nắng. Trước tiên họ phải cất công đi lên nương, lên rẫy thăm dò những các vị Yàng xung quanh để các vị Yàng bày cách làm lễ cầu mưa. Lễ cầu mưa ở rẫy khác với lễ cầu mưa ở làng, vì ở đây chỉ cúng cho thần rẫy, linh hồn của các ông bà tổ tiên, các vị thần thánh. Giàn cúng được dựng ngay tại rẫy chứ không phải bến nước hay các bụi cây lồ ô, tre, nứa. Ở rẫy, việc cầu thần mưa năm nào cũng giống năm nào, lễ vật dâng lên duy nhất là 1 con gà nướng, một ghè rượu màu vàng, theo phong tục thì ở rẫy không được cúng ghè màu đen, mà phải là màu vàng, tượng trưng cho sự vàng ươm của hạt bắp, hạt lúa được mang về đầy chòi. Người cúng phải ngồi xuống, không được đứng như làm lễ ở làng, khoanh hai tay vào nhau trước ngực khẩn thiết cầu khấn: “Hỡi thần rẫy, hỡi ông bà tổ tiên, hỡi các vị thần thánh, xin các vị hãy cho đám rẫy của con có được hạt mưa để cây bắp lên cao, cây lúa trĩu bông, đừng để cho những con chim, con thú dữ đến phá phách cây bắp, cây lúa của nhà con!”.

Những năm gần đây, người Jrai đa số theo dõi dự báo thời tiết qua đài, tivi để chủ động cho việc sản xuất. Tuy nhiên, lễ cầu thần mưa vẫn được nhiều buôn làng thực hiện để gìn giữ nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Jrai.


Hữu Cường

Kho tàng văn hóa dân gian của người Jrai

(GLO)- Nằm trong danh sách được Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch Gia Lai lập hồ sơ đề nghị công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia (gồm Lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui, Câu đố Jrai và Sử thi của người Bahnar Tơlô-huyện Kông Chro), Câu đố Jrai, hay nói chính xác hơn là sinh hoạt đố dân gian (người Jrai gọi là pơđao, mơđao…-N.V), là một hình thức giải trí đơn thuần nhưng mang tính trí tuệ cao. Tiếp xúc với loại hình tri thức dân gian này, chúng ta càng thêm hiểu, thêm yêu quý vẻ đẹp trí tuệ của người Jrai nói riêng và truyền thống văn hóa của tộc người bản địa ở Gia Lai nói chung.

Là người dành nhiều thời gian và công sức cho văn hóa dân gian Jrai và Bahnar, Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ-Trưởng phòng Nghiệp vụ Văn hóa (Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch) dường như rất vui khi biết rõ mục đích của tôi. Anh cười và khẳng định: “Đến thời điểm này, theo tôi biết, trong 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, trừ người Việt, chưa có dân tộc nào sánh được với người Jrai về số lượng câu đố đã được sưu tầm, với khoảng trên 1.150 câu đố (sưu tập câu đố người Việt đến trước 1955 chỉ thể hiện khoảng 2.000 đơn vị câu đố-NV).

Tồn tại độc lập với những đặc trưng riêng của một thể loại, không bị ràng buộc bởi tín ngưỡng đa thần, không lệ thuộc vào không gian và thời gian và các điều kiện khác, sinh hoạt đố Jrai có vị trí nhất định trong kho tàng văn hóa, văn học dân gian của tộc người này”.
Môi trường có thể diễn ra sinh hoạt đố Jrai, tức là khi vui chơi, uống rượu hay làm bất cứ công việc gì bà con cũng có thể đố nhau.          Ảnh: N.Q.T
Môi trường có thể diễn ra sinh hoạt đố Jrai, tức là khi vui chơi, uống rượu hay làm bất cứ công việc gì bà con cũng có thể đố nhau. Ảnh: N.Q.T
Vẻ đẹp bình dị

Dành thời gian để đọc hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn câu đố có mặt trong tập sách “Câu đố Jrai” (Nhà Xuất bản Đà Nẵng, năm 2008) do Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm, biên soạn, tôi không tránh khỏi những phút giây ngẩn lòng trước chiều sâu vẻ đẹp trí tuệ trong tâm hồn cộng đồng Jrai. Không khó có thể nhận ra việc người Jrai thường đố nhau về các vấn đề, khía cạnh liên quan đến cuộc sống hàng ngày, từ các loại cây, trái, con vật, đồ vật trong nhà, ngoài rừng, ngoài rẫy hay xung quanh buôn làng (như cây tre, mía, lúa, chó, gà…) đến chuyện đố nhau về sự ốm đau, bệnh tật, những sinh hoạt cá nhân.

Trung thành với lối tư duy trực quan nhưng hết sức tinh tế, người Jrai đã sáng tạo nên hàng ngàn câu đố vừa ngộ nghĩnh vừa có chiều sâu, đủ sức gây nên bất ngờ và cả sự bối rối cho những ai mới được nghe đến nó lần đầu. Chẳng hạn, dưới con mắt người Jrai, cái hoa bầu hoa bí quen thuộc lại là “Buổi chiều là thanh niên/ sáng sau đã đau rũ”, quả dưa hấu và cái cuống dây của nó “Người nhỏ dắt trâu to”, cái cối giã gạo “No khóc, đói nín”, con cua tám cẳng hai càng thì lại là “Tám thanh niên khiêng đá, hai ông già đi không”.

Không chỉ thế, những nếp sinh hoạt riêng, thường ngày cũng được phản ánh một cách sinh động trong câu đố. Ít ai trong chúng ta có thể nghĩ, trong quan niệm của đồng bào Jrai, “Ngày đói, đêm no” lại chính là cái nhà, “Người gầy đét, ở nhà dèn dẹt” là con dao và cái vỏ dao, “Ban ngày nó trẻ, ban đêm nó già” là cái chiếu được cuốn lại sau một đêm nằm ngủ, “Người ta, ai chả có lược” lại chính là đôi bàn tay…

Tôn vinh nét sinh hoạt dân gian truyền thống

Theo anh Nguyễn Quang Tuệ, sinh hoạt đố dân gian Jrai ở Gia Lai là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian có từ lâu đời, nó không chỉ tạo ra và là một môi trường giải trí lành mạnh, giúp rèn luyện tư duy cho các thành viên trong cộng đồng mà ngày nay, thông qua đó, người ta còn có thể tìm hiểu được nhiều mặt của cuộc sống xưa. Không lệ thuộc vào không gian, thời gian, không bị ràng buộc bởi những kiêng cữ khi thực hành, sinh hoạt đố dân gian Jrai có thể diễn ra bất kỳ ở đâu, vào bất kỳ thời điểm nào và không hề kén chọn đối tượng.

Người ta có thể đố nhau qua lại khi tham gia lao động tập thể trên rẫy, dưới ruộng, tại nhà rông, nơi nhà ở hay ngoài chòi đựng lúa; người ta có thể đố nhau khi mùa mưa cùng đi bẻ bắp, lúc mùa nắng cả làng đi xúc cá; người già, trung niên, phụ nữ, thanh niên và trẻ em…, tất cả mọi người, mọi lứa tuổi đều có thể tham gia sinh hoạt đố một cách tự nhiên và thoải mái, nếu có khả năng. Chỉ cần có hai người trở lên, một sinh hoạt đố đã có thể được tiến hành. Tuy vậy, môi trường được cho là lý tưởng nhất đối với sinh hoạt đố Jrai vẫn là những dịp tụ tập đông người của cộng đồng (và thường là có uống rượu), ví như trước, trong và sau một lễ bỏ mả, một buổi cúng nhà rông, một cuộc liên hoan văn nghệ…

Trong rộng dài câu chuyện với tôi, anh Tuệ dành nhiều thời gian kể lại quãng thời gian “ăn điền dã, ngủ điền dã” của mình cách đây gần chục năm về trước, khi anh để tâm và say mê với việc nghiên cứu, sưu tầm câu đố Jrai. Với anh Tuệ, việc sưu tầm câu đố Jrai khó hơn khá nhiều so với việc sưu tầm sử thi, truyện cổ, dân ca của dân tộc này. Ở mấy thể loại kia, người sưu tầm nếu chẳng may không biết nhiều về nội dung các tác phẩm mà người dân cung cấp thì anh ta vẫn có thể tiến hành công việc được nhưng đối với câu đố, kết quả của việc làm tương tự thường sẽ là thất bại.

Người ra đố sẽ kém hào hứng nếu phải đối diện với một người sưu tầm “mù” về câu đố, hỏi câu nào cũng lắc đầu chịu thua nhưng lại luôn luôn cắm cúi ghi ghi chép chép. “Cuộc chơi đơn phương kiểu này sẽ sớm kết thúc mà không có một phép màu nào có thể cứu vãn được-anh Tuệ chia sẻ. Trong trường hợp đó, nếu may mắn, người sưu tầm cũng chỉ nhặt được những câu đố thông thường, đơn giản-vốn có rất nhiều, dường như ai cũng biết, bởi những câu đố hay, những câu đố hiểm hóc bao giờ cũng được người Jrai dành cho cuối trận. Vì vậy, để có thể trở thành “bạn chơi” của người đố, tốt nhất là người sưu tầm nên cố gắng trang bị cho mình một vốn liếng câu đố tàm tạm, sao cho không bị loại ra khỏi cuộc chơi ngay từ những lần “nắn gân” đầu tiên của đồng bào”.

…Anh Tuệ chợt ngừng lời, im lặng một lúc lâu rồi anh nói với tôi những lời như đang tự nói với chính mình: “Ngoài sinh hoạt đố thông thường như vừa nêu, kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, trong sinh hoạt của đồng bào Jrai ở một số buôn làng còn có thêm hình thức hát đố. Việc diễn xướng câu đố Jrai này, nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng, có thể thực hiện được trước đám đông, trên sân khấu, giống như việc thi hát dân ca hiện nay.

Tuy nhiên, điều đáng tiếc là cho đến nay, việc tìm hiểu, góp nhặt, biên dịch và làm cho thế giới bên ngoài biết đến câu đố Jrai mới bắt đầu những bước đầu tiên”. Nói rồi, anh bất ngờ đọc như hát cho tôi nghe một câu đố của đồng bào Jrai với nụ cười ý nhị kèm theo lời giải đố: “Là đồng bào Jrai đang nói về một người rất gần gũi với tất cả chúng ta đấy: Đah vai (đă muai) ga / Taha (tơha) khăp / Hiăp nhu arang tui” (dịch nghĩa: Trẻ em thích / Người già yêu/Lời nói ai cũng theo)…
Thái Bình